20110516

Mỗi sáng ở châu Phi, một con linh dương thức dậy

Nó biết rằng nó phải chạy nhanh hơn cả con sử tử nhanh nhất nếu không nó sẽ bị giết

Mỗi sáng một con sư tử thức dậy

Nó biết rằng nó phải chạy nhanh hơn con linh dương chậm nhất hoặc nó sẽ bị chết đói

Điều quan trọng không phải là việc bạn là sư tử hay linh dương, mà điều quan trọng là

Khi mặt trời mọc, bạn nên bắt đầu chạy.

20110511

Esenin - sợi dây đàn thiên nhiên Nga

Esenin - sợi dây đàn thiên nhiên Nga

NGUYỄN TRỌNG TẠO                   esenin

S. Êxênin sinh ngày 21 tháng Chín năm 1895 tại làng Ku-dơ-min-xki, thuộc tỉnh Ria-dan của nước Nga. Năm lên năm tuổi, cái tuổi có thể tự mình cắp sách đến trường, cậu bé Êxênin cũng đặt bước chân thơ trẻ của mình vào thế kỷ XX. Lên chín tuổi, Êxênin đã bắt đầu làm thơ, nhưng đến năm 18 tuổi, thơ anh mới được đăng báo. Những bài thơ về thiên nhiên làng quê Nga của anh từ đó làm xôn xao dư luận người đọc, và lập tức, anh trở thành một nhà thơ nổi tiếng, được đặc biệt hâm mộ.

Đúng như lời tâm sự của Êxênin với mẹ từ trước, trong một bài thơ nho nhỏ của mình:
Ngày mai mẹ thức con dậy sớm
Mở cửa ra cho ánh sáng vào nhà
Người ta bảo con sắp thành thi sĩ
Nổi tiếng, và, một thi sĩ người Nga.

Phải chăng, người ta hâm mộ thơ anh vì thơ anh đẫm ướt tâm hồn Nga? Điều đó quá rõ ràng. Cho đến nay, trước những cửa hàng sách, người ta vẫn sắp hàng dài để mua thơ Êxênin khi thơ của anh vừa được tái bản. Chỉ tính trong những năm sáu mươi (thế kỷ XX), tuyển tập thơ Êxênin đã được tái bản nhiều lần ở Liên Xô với số lượng 12.000.000 bản, và chỉ đủ bán cho những người đã đặt hàng trước.

Thơ Êxênin giàu nhạc điệu, được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, và là những bài hát hay. Người ta cũng sáng tác khá nhiều bài hát về Êxênin rất được thanh niên Liên Xô ưa thích.

Êxênin là nhà thơ lớn của Nga và Liên Xô. Khi nhắc đến nền thơ Xô-viết, người ta thường kể đến Êxênin cùng với Blốc, Maiakôvxki. Êxênin cũng là nhà thơ lớn của thế kỷ XX, tiếc rằng, cuộc đời nhà thơ kết thúc quá sớm - Êxênin qua đời năm 30 tuổi.

*

Trong “Chân dung văn học”, khi viết về Êxênin, nhà văn Gorki kể lại rằng, cái chết của Êxênin đã làm sống lại trong ký ức của ông câu chuyện một cậu thiếu niên nông dân tình cờ đến thành phố Kralốp trên đảo Capri và bị lạc trong thành phố này. “Cậu ta đi loanh quanh mãi trên các phố, không sao thoát ra ngoài để trở về cảnh đồng rộng quen thuộc của cậu. Và cuối cùng, cảm thấy thành phố không chịu buông tha mình, cậu đã quỳ xuống đọc kinh cầu nguyện và đứng trên cầu nhảy xuống sông Vixoa, hy vọng dòng sông sẽ đưa mình trở về đồng ruộng. Người ta đã vớt được cậu bé lên, nhưng cậu đã chết vì những vết thương của mình…”.

Êxênin cũng có thể chết một cách ngây thơ đến tuyệt đẹp giống như cậu thiếu niên kia, nếu như vì một lý do gì đó buộc anh phải lìa xa tình yêu nông thôn Nga của mình. Tình yêu nông thôn Nga của anh là hàng trăm bài thơ của anh, nông thôn mà ở đó những ngôi nhà gỗ tuyết phủ trắng mùa đông, những cánh đồng vàng ánh trăng mùa gặt, những dòng sông, ngọn núi, hàng cây luôn phát ra một thứ ánh sáng rực rỡ sắc màu, những đàn bò, con chó, bầy gà luôn gần gũi như bạn bầu thân thiết, và đặc biệt là những người nông dân gắn cả cuộc đời với ruộng đồng, với nước Nga tươi đẹp đượm buồn. Cảnh và người của nông thôn trong thơ Êxênin sống động đến kỳ lạ. Bởi vì, nó luôn sống động trong hồn anh:
Và thơ con có một dòng sữa chảy
Dòng sữa của đàn bò của mẹ, của nhà ta

Đủ biết Êxênin yêu mẹ và yêu đàn bò đến nhường nào. Tình yêu ngỡ có thể trông thấy được, trắng trong và chầm chậm. ngọt ngào rỏ vào lòng người như dòng sữa chảy miệt mài qua năm tháng. Có được sự sống động ấy chính là nhờ tấm lòng cảm thông hoà nhập sâu sắc với cuộc đời, và đặc biệt là đối với tất cả mọi sinh vật ở chung quanh nhà thơ. Phải nói, Êxênin là người cảm thông thương yêu mọi sinh vật như đọc được mọi buồn vui của chúng. Đối với anh, buồn vui của mọi sinh vật là buồn vui của chính mình. Những nỗi buồn vui ấy trong thơ anh được thể hiện một cách tài tình tuyệt vời với những hình ảnh có sức lay động lạ lùng như là chỉ có ở một con người được sáng tạo ra với tư cách là một cơ quan của thiên nhiên và chỉ để làm thơ về thiên nhiên mới có thể nhận bắt được. Gorki đã một lần nhận xét như vậy. Ta hãy nghe Êxênin tả vầng trăng mà con chó mẹ bỗng nhìn thấy sau khi bầy chó con mới đẻ của nó vừa bị người ta bắt mang đi một cách tàn nhẫn:
Trên mái nhà, trăng mọc
Giống như một chó con.

Và Êxênin nhận thấy chó mẹ khóc:
Đôi mắt nó bỗng lăn
Những sao vàng xuống tuyết:

Ở một bài thơ khác, Êxênin lại thấy:
Sáo vừa đi vừa chạy
Trên đất cày đồng xa

Tại sao lại có thể thấy được sáo vừa đi vừa chạy chứ không phải là sáo chỉ đi hoặc là chỉ chạy? Tôi có cảm giác như lúc khởi lên câu thơ này, Êxênin phải hoà tan mình vào trong những luống đất màu mỡ vừa được lưỡi cày lật lên để ngắm nhìn những con sáo đang cuống quýt nhặt mồi vậy.

Không có sự cảm thông ghê gớm với muông thú, làm sao Êxênin có thể viết được những câu thơ như thế này:
Một tiếng quạ kêu mờ
Trong sâu thẳm sâu hồ nước
Một con gà rừng đen
Gọi đêm về chậm chạp

Hoặc:
Và ngoài sân bao con gà cộc
Đang gáy lên bài hát ban trưa

Qua đôi mắt và tâm hồn Êxênin giữa những sinh vật cũng có sự cảm thông đặc biệt với nhau:
Với tôi, đàn bò hiền
Luôn gật gù trò chuyện
Khiến cây sồi trẻ lại
Buông cành xuống dòng sông

Nhắc đến Êxênin cũng có nghĩa là nhắc đến thiên nhiên Nga của anh. Có nhiều nhà văn nhà thơ Nga đã dành cả đời mình cho thiên nhiên Nga, nhưng Êxênin có tài kỳ lạ trong việc vẽ phong cảnh bằng những câu thơ giản dị. Những bức tranh thiên nhiên của anh là những bức tranh thuốc nước, màu sắc thật là hài hoà, nhưng không phải vì thế mà thiếu đi những ấn tượng độc đáo. Chính sự kết hợp hài hoà màu sắc và bố cục, làm tôn lên một cách bất ngờ cái anh định tập trung mô tả. Và nhờ vậy, xem những bức tranh thiên nhiên Nga của anh, người ta mãi nhớ nó và mãi còn run rẩy lên vì nó. Hình ảnh mà ta dễ nhớ nhất của anh là cây cỏ. Cây cỏ trong thơ Êxênin lúc nào cũng ánh lên, phát sáng lung linh. Hầu như ánh sáng từ cây cỏ là sự phản chiếu ánh lửa từ đôi mắt thăm thẳm của thi sĩ. Có người nhận xét rằng, Êxênin có đôi mắt cháy rực một ánh lửa buồn rười rượi. Nhận xét ấy dường như không thật thoả đáng với những bài thơ anh viết ở tuổi thiếu niên. Nhưng dù sao thì đôi mắt của Êxênin cũng có lửa, và nhờ vậy nó đã khiến cho thiên nhiên phát sáng lung linh chung quanh anh. Sự phát sáng này xảy ra rất nhiều lần trong thơ Êxênin:
- Muôn chồi non ngậm tuyết
Chĩa bạc lên nền trời
- Và hạt tuyết vẫn cháy
Trong ánh lửa bằng vàng
- Còn bình minh chậm rãi
Đi vòng theo chung quanh
Với muôn vàng bạc mới
Rắc êm lên lá cành
- Trên gò đất cây bạch dương, cây bạch dương
Trong trăng sáng lên như thanh bạc
- Bên cửa sổ một ánh trăng. Bên cửa sổ một ngọn gió
Thổi vào cây bạch dương – cây nến, cây bạc của tôi
...

Tài quan sát của đôi mắt có lửa Êxênin quả là không lẫn với ai khác. Sự độc đáo của thơ anh đôi khi làm người đọc sửng sốt, đến phải xuýt xoa:
... Ở xa kia về phía dòng sông
Như một giải nẹp viền lông thú

Câu thơ không dùng đến một tính từ chỉ màu sắc nào, vậy mà cảnh vật hiện lên hết sức rõ nét trong các mảng tối, sáng của nó. Và đây là những đống cỏ trên cánh đồng bên sông lúc hoàng hôn xuống:
Màu hung những đống cỏ
Trông giống bao nhà thờ.

Tài quan sát của Êxênin thật lạ, thật tinh vi:
Rừng ngập hoàng hôn xanh
kín cả từng quãng trống.

Không gian trong thơ Êxênin là một không gian rực rỡ sắc màu. Sắc màu của không gian trước hết là màu sắc của mặt trời. Êxênin ít tả trực tiếp về mặt trời, không phải vì mặt trời quá chói chả khiến mắt anh không thích nhìn mãi vào nó, mà vì anh biết cái đáng quan tâm nhất của mặt trời là cái gì. Đó là ánh sáng. Và trong muôn vàn ánh sáng do mặt trời toả chiếu, anh đặc biệt quan tâm đến bình minh và hoàng hôn. Nói đến bình minh và hoàng hôn cũng chính là nói đến mặt trời.
Hoàng hôn như một quyển kinh thánh đỏ
Đang cầu nguyện những tin lành.

Thi sĩ Êxênin 15 tuổi đi trong ánh “bình minh cháy đỏ mặt hồ”, đã thấy:
Bên đường muôn đốm nắng bay
Và tôi ngập giữa mê say sắc màu
Tôi hôn bông nắng đỏ au
Ngất ngây xin giữ mai sau cho mình.

Tại sao lại giữ cho mình? Bởi những tia chớp hạnh phúc không phải lúc nào cũng có được dễ dàng.

Đấy là biểu hiện của một tâm hồn khát khao hạnh phúc. Đối với Êxênin, bình minh là biểu tượng cho tương lai tươi sáng, cái tương lai đẹp đẽ trong giấc mơ của cậu bé chăn bò:
Quên đi nỗi nhọc nhằn
Tôi ngủ trên khúc gỗ
Trong mơ, bình minh đỏ
Rước lễ bên suối trong.

Và chính ánh sáng của mặt trời ấy góp công cùng thi sĩ tô điểm màu sắc cho không gian tuyệt diệu thêm lên. Những làn mây, ngọn gió luôn ánh lên màu sắc lạ:
- Mây phồng xốp bọt vàng
Cuộn tròn trên rừng vắng
- Gió thổi nhẹ đường cầu vồng vàng rực
Dưới những làn mây xốp đồng quê.

Nhưng trong không gian thiên nhiên này, trăng dường như được Êxênin miêu tả với xúc cảm thần tình lạ lùng nhất. Thơ cổ kim đông tây đã mang đến cho con người biết bao vầng trăng kỳ diệu rồi, vậy mà vầng trăng tuyệt đẹp này của đồng quê tưởng khó mà gặp được nếu không có thi sĩ Êxênin trên đời này:
Trăng như quả lắc bằng vàng
Nhịp thời gian đổ mơ màng mưa êm.
Và đây, lại một vầng trăng kỳ lạ nữa:
Ôi, giá được mỉm cười trên đống rạ
Dùng miệng của vầng trăng nhai cọng rơm này.

Ta có thể gặp trăng rất nhiều lần trong thơ Êxênin, vầng trăng nào cũng lạ, ánh trăng nào cũng lạ. “Và ánh trăng đã buông – Những dây cương vàng chói”... Tôi muốn trích thêm nhiều nữa, nhưng thật không nên làm cái công việc tẩn mẩn ấy. Chỉ biết là, trăng luôn ám ảnh Êxênin suốt cuộc đời thi sĩ, như là trường hợp Hàn Mặc Tử ở ta vậy. Trong thơ Êxênin, ánh trăng luôn tràn trề, nhưng đấy là thứ ánh trăng không vương bụi, ánh trăng trong suốt. Nỗi ám ảnh ấy khiến Êxênin viết được một câu thơ rất lạ:
Chiếc mũ sau vòm cây – vầng trăng lặn muộn.
Cho đến năm cuối cùng cuộc đời, vầng trăng vẫn ám ảnh thi sĩ, mặc dù khi ấy, vầng trăng đối với anh không còn tươi đẹp như xưa nữa, mà day dứt một nỗi buồn ảm đạm. Tuy vậy, cái vầng trăng buồn vẫn hiện lên trong thơ anh như là nó chỉ hiện lên một lần duy nhất trong vũ trụ:
Đồng nội tuyết, một mặt trăng màu trắng.

Mặt trăng buồn đến lạnh người, mặt trăng màu trắng, nhưng đó vẫn là cái nỗi buồn dịu muốt – nỗi buồn Êxênin.

Nếu tả thiên nhiên mà chỉ để tả thiên nhiên thôi, thì dù có tài hoa đến mấy, cũng mới là tài hạng hai. Thiên nhiên trong thơ Êxênin là thiên nhiên của lòng người hoà nhập. Nói cách khác, thiên nhiên đã thở bằng hơi thở Êxênin, sống bằng sức sống Êxênin, cảm và nghĩ bằng trái tim thi sĩ. Sự tả cảnh trong thơ Êxênin bao giờ cũng như để chuẩn bị cho một cái gì đó sâu xa hơn, nói chính xác là sự tả cảnh tự mang trong nó cái gì sâu xa ấy. Đó là lòng người. Bài thơ “Đã chiều rồi” viết năm 15 tuổi, khi Êxênin đứng “ngả đầu vào dương liễu bên đường” nhìn ra cánh đồng làng là một bài thơ giàu mẫn cảm, giàu tâm trạng. Ở đây, Êxênin không có ý định phản ánh hiện thực già nua của nước Nga khi tả cảnh đồng quê, nhưng chính sự mẫn cảm thi sĩ đã làm sống lại hiện thực này:
Ở xa kia về phía dòng sông
Như một giải nẹp viền lông thú
Có cụ già gác đồng buồn ngủ
Gõ triền miên vào chiếc mõ đã già.


Ở một bài khác, một bài gần như hoàn toàn tả cảnh, vậy mà khi kết thúc bài thơ, một hồn người bỗng hiện lên, choáng ngợp cảm xúc của ta:
Anh cầu mong thầm lặng
Cho số phận của em!

Người ta say mê thiên nhiên trong thơ Êxênin là bởi vậy. Tấm lòng nhà thơ luôn được ký thác vào thơ một cách đắm đuối nhất. Niềm vui đắm đuối đã đành, nỗi buồn cũng đắm đuối. Bạn cứ tưởng tượng xem, có một con người không hề yêu cũng không hề ghét… Thật vô duyên biết chừng nào! Tôi không muốn nói thiên nhiên trong thơ Êxênin là một thiên nhiên tuyệt vời duyên dáng, nhưng kỳ thực là vậy, bởi nó chứa một tâm hồn cao đẹp được bộc lộ đến tận cùng với vẻ duyên dáng trời cho.
Cây rung lên khe khẽ
Anh đã yêu tiếng động buồn, có lẽ
Trước mùa thu.

Đấy, Êxênin đã trò chuyện với cây dương – với thiên nhiên như vậy đấy, như là trò chuyện với người tình say đắm của mình!

*
   
Nếu như con người là đối tượng đáng được hưởng sự cảm thông, lòng yêu thương hơn tất cả mọi vật, thì Êxênin là nhà thơ đã dành hết thảy sự cảm thông, lòng yêu thương của mình cho con người. Suy cho cùng sự cảm thông, lòng yêu thương của anh đối với mọi vật cũng chính là một biểu hiện vì con người mà thôi. Năm cuối cùng của đời mình, Êxênin vẫn ca hát cề con người:
Đất nước màu xanh. Và vui làm sao
Tâm hồn tôi bán cả cho bài hát
Như vì Ghe-li-a trong bóng những vòm cây.
Con chim sẻ ôm hoa hồng thơm ngát.

Trước đó 13 năm, trong bài thơ “Nhà thơ”, Êxênin từng khẳng định:
Ai đã yêu con người như thể những anh em
Và cả quyết dám khổ đau vì họ?
- Nhà thơ
Nhà thơ đã tự do làm tất cả
Mà bao nhiêu người khác chẳng thể làm.

Nhưng chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy, con người trước hết trong thơ Êxênin là con người nông dân, những con người gần gũi với thi sĩ từ thuở anh mới lọt lòng mẹ. Và thực ra, chính anh cũng là một tế bào trong cộng đồng làng quê nông dân ấy. Cho nên, sự đồng cảm của anh với những con người nông dân dường như là sự đồng cảm tuyệt đối. Anh hiểu người mẹ khi ở “Trong nhà”, “Mẹ không bao giờ nghỉ ngơi – Dáng lưng còm đi lại”, và khi đứa con đi xa, mẹ luôn mong ngóng tin con:
Quãng đường vắng mẹ thường đi
Mình choàng chiếc áo dân quê bông sờn.
Khi xa nhà, anh tự hỏi “ở đâu nhà của bố tôi – Tấm lưng còm sém nắng trời tháng, năm”, và khi trở về nhà sau bao năm xa cách, anh bỗng ngỡ ngàng trước đứa em gái “không một chút ngại ngần – Mở quyển sách to như Kinh thánh – Quyển Tư bản – Và nói về CácMác – Nói về Ăngen…” – Ở đây, sự ngỡ ngàng xảy ra bởi những gì quá quen thuộc trước đó mà thôi. Sự đồng cảm lớn với người nông dân đã giúp Êxênin phát hiện ra những vẻ đẹp ẩn giấu trong họ từ lâu. Đấy là câu chuyện riêng tư của người chăn bò với cây dương liễu tơ non bên hồ nước vắng vẻ. Êxênin nghe được người chăn bỏ hỏi cây dương: “Gió đã thì thầm gì với em – Cát đã nói gì với em?...” Người ta có thể hỏi những lời như vậy không đến nỗi khó khăn lắm, nhưng nghe được những câu trả lời như thế này của cây dương thì không phải ai cũng dễ dàng nghe được:
“Ôi, người bạn tò mò ơi
Ở đây dưới đêm sao
Có một người chăn bò vừa khóc.

Khi ánh trăng trang sức
Trên những tán cây xanh
Anh ấy đã ôm tôi thật chặt
Đôi bắp chân cóng rét để trần.

Cứ như vậy anh thở dài não ruột
Nói dưới tiếng động của lá cành:
- Vĩnh biệt bồ câu của anh
Đến những mùa chim sếu!...”

Đấy là sự phát hiện tài tình ra hạnh phúc của những người nông dân trong lao động vất vả cực nhọc của họ, cái niềm hạnh phúc mà nếu là người không có sự đồng cảm sâu sắc với người nông dân, không thể nào thấy được:
Hạnh phúc cho những người khi nhận thấy
Niềm vui trong nỗi buồn chăn bò của mình.

Tôi muốn nhắc lại một lần nữa: Niềm vui trong nỗi buồn chăn bò của mình… Và cũng chính vì vậy mà Êxênin, anh luôn mang trong mình niềm day dứt về sự lam lũ khổ đau, bị chà đạp tàn nhẫn của người nông dân Nga. Cho mãi về sau, khi nước Nga đã được giải phóng bằng Cách mạng tháng Mười, niềm day dứt ấy vẫn in đậm trong thơ Êxênin:
Sao rồi em, đồng nội của chúng ta
Ôi đồng nội mặn mà cát trắng
Và ai đó không lỗi lầm bị dẫm
Và đau thương có thật của ai xưa?
Tình yêu người nông dân cũng chính là khởi nguồn tình yêu con người nhân loại lớn trong thơ Êxênin. Con người, đối với Êxênin, nếu không có nó thì trái đất sẽ chỉ là một quả cầu chết. Êxênin là người biết nhận ra sự cô đơn ghê gớm khi chung quanh mình vắng bóng con người, hoặc trống vắng tình yêu của con người. Anh cảm thấy không thể ngủ được khi nằm một mình trong căn phòng giữa đêm mênh mông, và không thể chịu được sự cô đơn, anh thoát khỏi căn nhà để tìm đến với con người:
Đêm không ngủ. Đêm không ngủ
…….
Ra đi hỡi trái tim nhỏ của tôi
Nghe bài hát người chơi đàn guxli, nghe bài hát

Và khi đến được với con người rồi, không còn cô đơn nữa, nhà thơ sung sướng đến reo lên:
Tôi say đắm trong tuyệt vời vẻ đẹp
Của người con gái dưới trăng đêm
Tôi sẽ nhảy theo đàn guxli ấy
Và sẽ xé tan chiếc khăn cưới của em!

Dĩ nhiên là chàng trai Êxênin không xé tan chiếc khăn cưới của người con gái mà anh say mê ấy, nhưng tình yêu con người ở anh quả là đến mức có thể làm được điều ấy, thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa:
Tôi sẽ mang em vào tháp gỗ tối đen
Vào khu rừng xanh vào nơi xa vắng
Những sườn núi – tôi sẽ mang em đến
Bình minh cây anh túc mỉm cười.
Những đoạn thơ trên trong bài thơ Êxênin viết năm 16 tuổi, cái tuổi vừa qua thời niên thiếu để trở thành người lớn, cái tuổi mà tình yêu cuộc đời toát ra mãnh liệt nhất với sự tươi mới của nó. Nhưng không phải vì thế mà trở thành ngông cuồng, lố bịch. Đấy là sự hồn nhiên không thể cưỡng của tuổi trẻ, cũng là điều đáng cảm thông nhất của con người. Niềm cảm thông và tình yêu thương lớn của thi sĩ đã giúp Êxênin nhận ra được “trên sóng hào quang của sao – Những khổ đau đang ước vọng”, và càng tin yêu hơn “tiếng rì rào của dòng nước mạnh”. Lòng tin vào sự vươn tới của con người trong thơ anh thật mãnh liệt:
Có nghe không, hoa hồng đang gục xuống
Đang rữa tan. Bài hát vẫn vang lên?
Nói đến tình yêu con người trong thơ Êxênin, không thể không nhắc đến mảng thơ tình của anh. Đấy là những bài thơ tình vào loại “gối đầu giường”, cho đến bây giờ, nó đã được rất nhiều người thuộc như thuộc ca dao. Cái hay của những bài thơ tình này không chỉ ở nhạc điệu tuyệt vời mà người ta có thể dễ dàng hát lên được, cũng không phải vì nó mô tả những tâm trạng cô đơn tuyệt vọng của tình yêu éo le, rắc rối. Điều chủ yếu, đấy là những bài thơ của tình yêu rực cháy khát vọng hạnh phúc của tuổi trẻ. Và nó được ghi lại một cách chân thực. Cảm giác như là tình yêu của chàng trai Êxênin tràn trề như thế nào, thì những dòng thơ tình yêu của thi sĩ Êxênin cũng tuôn chảy tràn trề như vậy. Tình yêu như chỉ còn có hai người với nhau.
Nghe không em – xe trượt tuyết đang phi – nghe không  em?
Tuyệt diệu làm sao, cùng người yêu biến vào cánh đồng êm
Đấy là niềm vui sướng không thể kìm lại được, phải thốt ra thành thơ. Để rồi cùng reo lên trước thiên nhiên bao la:
Ối, xe trượt tuyết! Xe trượt tuyết!
     con ngựa hung nhạt của tôi
Không phải người say rượu đâu – ở xa kia
     cây phong đang múa đó thôi
Và cuối cùng là:
Chúng tôi đến và hỏi rằng: Làm sao thế cây phong?
Rồi cùng nhảy với nhau – ba người – trên tuyết trắng như  bông.


Đấy chỉ có thể là tình cảm của người đang bốc men say. Nhưng đây không phải là men rượu, đây là men ái tình. Đối với Êxênin, tình yêu có thể làm cho người ta chấp nhận cây phong với tư cách một con người đồng điệu, một con người biết yêu say đắm và biết biểu hiện tình yêu ấy bằng sự múa nhảy nồng nàn.

Cao hơn tất cả những tình yêu bình thường phải là tình yêu với sự bộc lộ bản năng cao đẹp của con người. Nếu như bây giờ, người ta coi sự thật là biểu tượng cao cả của đạo đức, thì chính Êxênin, từ cách đây hơn nửa thế kỷ đã từng đốt lên một ngọn lửa bằng nhiên liệu sự thật trong những bài thơ tình của mình. “Tôi không nói cùng người yêu những lời không có thật”, câu thơ như một câu thề thốt, bởi nó không phải là sự thề thốt, nó là sự giãy bày với chính mình, thi sĩ Êxênin. Sự thật bao giờ cũng mang trong bản thân nó tính hồn nhiên tuyệt đối. Thơ tình của Êxênin cũng vậy.
Người yêu hỏi rằng:

“Gió tuyết có không anh?
Để trải đệm? Hay đốt lò sưởi vậy?”
Tôi nói với người yêu: “Từ trên cao ấy
Đang có người tung hoa tuyết trắng tinh
Hãy đốt lò, hãy trải đệm đi em
Anh không em, tim anh như bão tuyết!”
Một lần khác, Êxênin lại quả quyết:
Bởi sinh ra là một thi sĩ
Anh sẽ hôn như thi sĩ mà thôi.

Có khi, ta bỗng ngạc nhiên đến sửng sốt, khi nghe Êxênin bộc lộ sự thật trong tình yêu của mình một cách chân thành đến quá mức tưởng tượng. Đấy là khi tình yêu đang dâng lên trong lòng anh trước một người con gái nơi xa lạ, và anh đã tỏ tình. Nhưng trong lời tỏ tình ấy, anh không hề dấu người con gái này, có một người con gái khác đang yêu anh:
Sa-ga-nê, em của anh, Saganê
Ở phương bắc cũng có người con gái
Trông rất giống em, chẳng khác gì
Cũng có thể đang nghĩ về anh đó
Saganê, em của anh, Saganê!...

Hẳn là Saganê không nỡ chối tấm lòng chân thật đến nhường kia của người thi sĩ.

Và đây, lại là một sự thật khác, một sự thật vừa cay đắng, vừa cao thượng:
Khi mân mê bàn tay, đừng làm méo đi nụ cười
Tôi yêu người khác mà chẳng yêu em
Ôi, em biết, và chắc em biết lắm
Tôi không phải nhìn em, cũng chẳng đến với em đâu
Tôi chỉ đi qua với trái tim lặng lẽ
Và cũng chỉ ngoái nhìn qua cửa sổ mà thôi.

Người đời thường cho rằng, những ai chỉ sống với bản năng thì rốt cuộc chẳng làm nên được trò trống gì. Nghĩa là anh ta thiếu sự kìm chế của ý thức, và  bởi vậy mà tự cắt đứt những sợi dây ràng buộc với xã hội. Nhưng bản năng tâm hồn Êxênin thì khác, đấy là cái bản năng người nhất, cái bản năng mà tự nó là một sự cao thượng, vừa đáng kính nể lại vừa dễ gần gũi. Đấy là khi đang yêu say đắm, anh nói với người yêu:
Người ta yêu em đến sờn mòn
Người ta chiều em đến nhàu nát.
Hoặc là khi anh nói với người yêu đã bỏ anh mà đi:
Sợ chi một chuyện đau lòng
Tôi cần nhiều, cũng chẳng mong chi nhiều.
và:
Tôi không phải kẻ mê say
Bằng âu yếm lúc cầm tay, sát kề
Vậy mà tình yêu vẫn cứ day dứt anh mãi:
Mà nụ cười – lạ lùng sao
Cứ như bão tuyết xoáy vào tim tôi!
Tại sao nỗi buồn cứ đeo đẳng thi sĩ như bóng với hình khi tưởng như đáng lẽ phải tức giận vì nó? Vì Êxênin biết trân trọng tất cả tình yêu của mình, đấy là những gì trong sáng, đẹp đẽ và hồn nhiên nhất. Không phải ai cũng dễ dàng có được một tình yêu thực sự để  rồi được day dứt mãi về nó khi nó không còn quay lại nữa. Có cảm thông như vậy ta mới có thể thấm thía sâu sắc nỗi buồn của thi sĩ trong câu thơ anh viết:
Và bây giờ, đối với người yêu, tôi chẳng là gì
Tôi khóc tôi cười trong bài hát không hề thân thuộc
*

Nỗi buồn của Êxênin khi thì tràn ngập và nặng nề như mây chì, bão tuyết, khi thì phảng phất như những làn gió nhẹ trên đồng lúa mênh mông quạnh vắng cuối hoàng hôn. Nỗi buồn ẩn hiện trong cả những bài thơ trữ tình vui tươi lẫn trong những bài thơ cách mạng khoẻ khắn. Nhiều khi, nỗi buồn thi sĩ cũng đượm vẻ bi tráng:
Đêm như đêm nay
xanh nhờ
trên Ba-ku
26 bóng đen
bóng đen của 26 người ấy
26
nỗi đau của chúng ta
bài hát của chúng ta.
Nhưng bao trùm Êxênin vẫn là nỗi buồn người. Nỗi buồn tưởng như không thể nào thắng nổi. Êxênin cũng đã nhiều lần nhận thấy tai hoạ của nỗi buồn. Và anh ngang tàng chỉ trích, và ngang tàng tuyên chiến với nó:
Tàn bạo và kiêu hãnh
Dáng điệu mới luôn luôn
Xưa máu đầy trong miệng
Nay máu đầy trong hồn

Tôi không nói với mẹ
Mà với cả mọi người
- Tôi vấp vào hòn đá
Ngày mai sẽ lành thôi

Ngay cả khi đứng trước tượng Puskin, nhà thơ mà anh rất kính trọng nhưng đã kết thúc số phận bằng sự chiến bại trước nỗi buồn, Êxênin muốn khẳng định ý chí của mình:
Nhưng tôi là một người trong xua đuổi
Tôi phải còn, và phải hát không ngừng
Để những bài hát của tôi về đồng nội
Mãi rung lên như tiếng ngân đồng.

Một lần khác, anh đã thét lên xua đuổi nỗi buồn, như là đã vĩnh biệt nó lần cuối cùng:
Bây giờ đây dù ai có các vàng
Tôi cũng không muốn lại nghe điệu nhạc kia não ruột.
Oái oăm thay, cái điệu nhạc của nỗi buồn não ruột kia vẫn đeo đuổi thi sĩ như một định mệnh. Và Êxênin đã không sao chiến thắng nổi nó; câu thơ cuối cùng anh để lại là một bằng chứng của sự thất bại này:
Trên đời này, chết phải đâu là mới
Nhưng sống, tất nhiên, cũng chẳng mới hơn gì!
Cái chết đầy bi kịch của tính cách Êxênin như là không thể khác được. Bạn đọc của anh không ai muốn anh chết như vậy. Anh đã mang đi bao nhiêu bài thơ mà đáng lẽ chúng ta còn có thể được đọc và được buồn vui nhiều thêm lên trong cuộc đời, những tháng ngày mà chúng ta được sống trên trái đất này.
Những bông hoa đến từ biệt cùng tôi
Cúi thấp xuống những mái đầu xinh nhỏ
Mặt người yêu và mảnh đất ông cha
Tôi mãi mãi sẽ không còn thấy nữa

Chẳng còn gì hơn, rồi lại có người
- Nỗi buồn cũ cần chi cho kẻ chết
Một người khác sẽ cất lời hát tiếp
Cho người tôi yêu còn bỏ lại trên đời

Người tôi yêu sẽ yêu lại một người
Và tiếp nhận bài ca kia lặng lẽ
Có thể đôi khi nhớ về tôi nhỉ
Như một cánh hoa không lặp lại bao giờ.

Đúng như vậy, thơ Êxênin không lặp lại dọc thời gian, nó luôn luôn mới mẻ như vừa được sinh ra. “Con người của tương lai sẽ đọc Êxênin như nhân dân hiện giờ đã đọc anh. Sức sống mãnh liệt của thơ anh đã nói nhiều với họ” – (nhận định của nhà thơ N.Tikhônốp).

Thơ Êxênin sống mãi là vì vậy. Rồi người những đời sau có thể quên đi rằng, trước khi đến yên nghỉ tại một nghĩa trang ở Lêningrat, tháng 11 năm 1925, quan tài Êxênin đã được đưa quanh tượng đài Puskin… nhưng người ta sẽ không bao giờ quên thơ anh, những bài thơ thuộc về thiên nhiên và con người trên trái đất.

Hà Nội, tháng 11-1981 NGUYỄN TRỌNG TẠO

20110328

Đạo đức - Đức hạnh

Đạo đức - Đức hạnh




Sống là sống với” đó là tuyên ngôn đanh thép của kiếp người. Chẳng kẻ nào có thể sống cô độc vò võ một mình được cả. Cho dù anh chàng Rô-bin-xơn có lang bạt khỏi loài người, sống trên một ốc đảo hoang vu thì anh cũng chẳng dứt bỏ nổi nỗi ám ảnh của cộng đồng nhân lọai, và tuyệt đối hơn nữa anh ta chẳng thể nào sống nổi mà không làm bạn với muông thú trong rừng sâu. Con người là sống với - sống với người khác – và sống với vũ trụ đang nuôi dưỡng con người. Song muốn “sống với” con người buộc phải xuất thế cái bản ngã ru rú cô quả của mình để hội nhập vào dòng chảy chung của nhân loại mà nguyên lý của dòng chảy đó là: Đạo lý làm người.


Không có đạo lý làm người sẽ không có xã hội bởi lúc đó mỗi con người chỉ như là một phần tử rời rạc được chăng hay chớ của cái gọi là số lượng hơn là loài người. Không có xã hội không có nền văn minh. Bởi vậy, cả triết gia Kant - người nổi danh lỗi lạc trên địa hạt đạo đức như tên gọi “ông hoàng của phúc âm mới”, và Rousseau thủ lĩnh của “Khế ước xã hội” nổi tiếng đều cho rằng: “Bản tính đạo lý của con người là quan trọng nhất” ( Man’s moral nature is most important. -‘Encyclopedia Compton’s’, P17, tr.265).


Và Kant còn cho rằng: “Vẻ đẹp là tượng trưng của lòng đạo đức” ( La beaute’ est le symbol de la moralite’ ). Đi xa hơn nữa St. Thomas cho rằng lòng tốt còn chói sáng hơn cả chân lý. Chân lý mà làm gì nếu con người không biết vận động tâm hồn khát khao chân lý của mình để sống với nhau bằng một lương tâm thiện tín, một trái tim thiện hảo và một tấm lòng nhân ái. St. Thomas nói: “Cái tốt còn chói sáng hơn cái thật” ( The “good” is more excellent than the “true” ).


Tuy nhiên đạo lý không dễ nhận biết như vậy, con người vẫn tiếp tục rồ dại sản xuất ra hàng loạt những khẩu đại bác với kích cỡ ngày càng lớn, người ta vừa nhằm vào những con người để bắn lại vừa chạy đến để cứu thương hay nhỏ nước mắt chôn cất tử tế, hoặc còn lập ra những hội đồng ái - thiện để an ủi chăm sóc làm dịu đi nỗi đau của những quả phụ đã hóa đá chờ chồng. Đó là một nghịch lý vô minh nhưng lại được sào đi tái lại một cách rất hiền minh. Để tận dụng trí tuệ mong thủ lợi, con người còn cố tình chơi trò tung hứng đạo lý để mua vui hay mõi từng đồng xu ít ỏi của những chú nhi đồng lam lũ đang há mồm thần phục trò ảo thuật. Khi phản ứng dây chuyền nguyên tử được phát hiện, vậy là người ta đổ xô vào tìm cách đoạt lấy nó như một phương tiện để đe dọa người khác. Khi người ta biết rằng hơi thở là thiết yếu nhất của con người vậy là người ta lao vào sáng chế ra những độc tố hóa học để tung vào không khí khiến tha nhân chẳng còn đường mà thở.


Đạo lý là tất yếu với con người đến mức nó là cái thăng thiên con người từ thế giới động vật lên hàng nhân loại, ấy vậy mà cho đến ngày nay người ta vẫn còn bàn cãi lu bu về nó. Tại sao vậy? Loại trừ những yếu tố họăc giá trị vi tế của đạo lý, con người vẫn xung sát nhau về đạo lý để biện hộ cho hành động của mình hơn là thiện chí sống đạo lý. Người ta thích đạo lý là con đường khai mở dễ dàng các hành động vụ lợi của mình hơn coi nó như một bức tường cao vòi vọi của lương tâm con người. Và người ta bàn về đạo lý để thỏa thuê miệng lưỡi kiến văn lọc lõi hùng biện của mình hơn là sống đạo lý, Bởi vậy đạo lý càng mập mờ di dịch bao nhiêu thì con người càng có cơ hội ẩn trốn, xuất gia hay thủ đắc, và đạo lý như một vũng nước càng đục thì cò càng béo.


Không ! Bằng một lương tâm công chính chúng ta hãy chối bỏ điều đó. Dù xã hội có thể tiến bộ đến bao nhiêu, dù súng dài súng ngắn, tầu bay tầu bò, tên lửa vượt đại châu hay vệ tinh thăng thiên sao hỏa thì đó cũng chưa hẳn là cuộc tiến bộ của nhân loại toàn diện. Nhân loại thiết yếu phải là đạo lý làm người. Nếu người ta có ý định sản xuất ra những đồ i-nốc sáng loáng hay những đồ pha lê lấp lánh mong thay thế đạo lý làm người tốt đẹp và bình dị là thoái hóa chứ không phải tiến hóa. Nếu bạn không muốn tin điều đó, bạn hãy thử xem người ta sáng chế ra những dụng cụ khoa học có hẳn để lúc nào cũng giúp ích cho con người? Henri Poincare nói: “Những dụng cụ tinh mật dùng một cách không chính đáng có thể cản trở sự tiến bộ của khoa học” ( Alfred North White Head ‘Bước đường phiêu lưu của những dòng tư tưởng’, dịch giả Nam Chi và Từ Huệ, Văn Đàn 1969, tr.468 ).


Bạn đã từng chứng kiến người ta dùng khoa học để kìm kẹp, phá hoại hay lợi dụng chính khoa học như thế nào rồi. Vả lại có bao giờ bạn mong ước một ngày nào đó một khẩu súng liên thanh tự động chĩa vào nhà bạn nhả đạn dữ dội không? Bạn có bao giờ mong một quả bom đang rơi xuống mái nhà bạn? Hay vợ con bạn mắc phải chứng hen phế do hít phải độc tố mới phát minh của ngành hóa học? Không! Chắc hẳn là không! Sự tiến bộ của khoa học buộc phải nằm trong cuộc kiểm thảo của lương tâm. Không có lương tâm, khoa học chỉ là một đống máy móc phi nhân với mục đích lấy sắt thép thay thế con người và giá trị con người. Có một châm ngôn rằng “Khoa học không có lương tâm chỉ là táng bại cho linh hồn” . Rabelais cũng nói: “Học vấn không có lương tâm chỉ là thứ tàn phá linh hồn” ( Science sans conscience n’est que ruin de l’ame ).


Đạo đức là khoa học của Điều Thiện


Đạo đức là gì?



Chúng ta hãy lần về cội nguồn, lần về buổi ban sơ của bình minh Hy Lạp, cái thời mà lương tâm của con người còn khá trong trẻo khi không bị những cú sốc liên tiếp của thời đại hay lịch sử vấy bùn lên. Socrate nói: “Đạo đức là khoa học của điều thiện” ( La vertu est la science du bien ). Tuy nhiên Socrate là một học giả, bởi vậy chữ khoa học của ông thiên về ý thức. Có một câu phương ngôn bình dân khác là: “Đức hạnh là thói quen của điều thiện” ( La vertu est l’habitude du bien ).


Thói quen là gì? Nó có phải những cư xử trong sinh hoạt sẽ dần trở thành tập tục và hơn nữa dần trở thành truyền thống. Kết hợp phương ngôn này với ý tưởng của Socrate chúng ta thấy rằng: Đạo đức là ý tưởng về điều thiện và hành động về điều thiện. Đến đây, vào lúc mà đạo đức đang hoàn thành sự an bài của nó một cách thật chắc tâm thì một cõi hoang mang mới mở ra: hoang mang thiện ác, nó du đẩy đạo đức trở lui về cõi hỗn mang huyền hoặc của mình.


Thiện –ác đó là cuộc tranh luận giằng co suốt dòng lịch sử. Con người bản tính thiện hay bản tính ác, đó là vấn đề đã được các học giả Trung Hoa lật xới nhiều lần mà chẳng đi đến một kết cục nào. Nếu sự luận bàn của các học giả Trung Hoa phần nào giống câu hỏi “con người là nữ hay nam?” thì nó sẽ được giải đáp bằng câu trả lời: toàn thể vũ trụ cả âm lẫn dương. Và nếu nó có giống câu hỏi “con người là sống hay chết?” thì nó cũng được giải đáp: con người là cả sinh và tử. Ở đây theo tôi, người Trung Hoa đã mắc phải một đạo đức duy sinh trong khi họ lại muốn luận rốt ráo về thiện ác. Đáo cùng, thứ thiện – ác của họ chỉ là thứ duy niệm nửa chừng xuân khi không tách bạch thứ đạo đức duy niệm cho tư tưởng, và đạo đức duy sinh cho thực hành. Để tránh dẫm theo những bước chân của họ, tôi sẽ bàn đến đạo đức trên những bình diện thuần khiết riêng rẽ, nghĩa là:


1- Đạo đức duy niệm tuyệt đối
2- Đạo đức lựa chọn song hành cùng tư tưởng tự do trước hành động
3- Đạo đức hành động.


1- Đạo đức duy niệm tuyệt đối


Chúng ta hãy trở lại nỗi giằng co khôn nguôi của thiện – ác bằng cách tham chiếu một loạt các ý tưởng sau đây. Durkheim nói: “Cái tốt hay cái xấu, luân lý hay phi luân chỉ là cái thường có hay vô thường trong một xã hội đã tồn tại” ( Le bien et le mal, le moral ou immoral, c’est le normal et l’anormal dans une societe donnee. – Sdd ‘Histoire de la Philosophie, tr.68 ). Khi cái xấu biến thành cái vô thường thì dường như nó được hóa kiếp khỏi thực tại, và ý tưởng này càng rõ rệt hơn ở Donald Butler : “Tội lỗi không phải giá trị tồn đọng một cách thực tại, nó chỉ là thứ phủ định những giá trị”( Evil is not real existence value, it is negative of value. – Sdd ‘Four Philosophies’, tr.162 ).


Thánh Aquinas cũng cho là vậy, ông nói: “Cái xấu không có trong thực tại. Nó chỉ là sự vắng mặt của cái tốt. Người ta chỉ có thể lĩnh hội cái xấu thông qua cái tốt giống như chỉ có thể nhận biết bóng tối bằng ánh sáng” ( Le mal, n’a point de realite – Ce n’est que l’absence du bien. On ne peut concevoir les tenebres que par la lumiere. – Sdd ‘La Philosophie moderne’, tr.53 ).


Theo thánh Aquinas thì cái xấu và cái tốt tham chiếu lẫn nhau như cái xấu và cái đẹp, cao và thấp, chúng tham chiếu lẫn nhau. Chúng ta hãy nhìn một cái thước dài và một cái thước ngắn nằm cạnh nhau, nhân danh cái gì mà ta gọi cái này là thước dài và cái kia là thước ngắn? Nhân danh độ dài của một con đường chăng? Hay nhân danh độ dài từ trái đất lên mặt trăng? Không! Cái thước này dài bởi so với cái thước ngắn, nó dài hơn; còn cái thước kia ngắn bởi so với cái thước dài, nó ngắn hơn. Ý tưởng tương quan này tung hê mọi quan niệm của chúng ta về thiện ác, nó dường như sổ toẹt vào tâm trí của chúng ta rằng: làm gì có dài và ngắn tuyệt đối, cũng vậy làm gì có thiện và ác cố định. Hãy phiên phiến thôi, thiện và ác lấn sang nhau và du di lẫn nhau. Nếu vậy con người có quyền làm mọi chuyện không? Và liệu tôi có bình tâm làm điều ác khi nghĩ rằng tôi vẫn là người thánh thiện so với kẻ ác hơn tôi?


Nỗi dùng dằng của thiện ác đâu chỉ có vậy, cái nghịch lý của nó còn xảy ra ngay cả với những tâm trí đã ý thức rõ rệt cái hay – cái dở, ngạn ngữ La Tinh có câu “Tôi thấy điều hay nhất mà tôi vẫn không tự ngăn làm điều dở nhất.” Nỗi éo le này đã được Dostoievski mổ xẻ nhiều lần một cách lọc lõi. Theo ông thì trong rất nhiều trường hợp con người đã hành động trái với cả ý thức chính đáng của mình. Một kẻ hút thuốc, nó thấy hại mà vẫn cứ hút; một kẻ định bụng đến ngã ba thì rẽ tay phải thế mà đùng một cái nó rẽ tay trái; còn một kẻ quái dị khác, kẻ thấy hạnh phúc trong đau đớn, đó là một gã đau răng nhức nhối, gã mừng vì thấy mình được đau bởi gã có cơ hội được rên rỉ cho đã, được nhìn người thân nhăn nhó phục dịch quanh gã, mỗi lúc gã càng rên la rầm rĩ và hối thúc, gã ngẫm: ừ, ta đau, còn các ngươi cũng chẳng được yên, các ngươi phải nhăn nhó khổ sở. Thế là ta hạnh phúc, bởi ta thấy mình được quan tâm và trở nên quan trọng.


Đức hạnh có phải ngón huyễn hoặc, ở tay phải thì được gọi là cánh hữu, sang tay trái thì được gọi là cánh tả? Và khi nó mông lung bỡn cợt như vậy thì con người thả cửa muốn làm gì thì làm? Nếu vậy, những kẻ phóng đãng và tôi có thể la rú lên: Hoan hô! Mọi bổn phận đã được giải phóng cả rồi, mọi rào chắn đã bị tháo tung, và con người là con người của toàn quyền hành động. Hãy uống đi! Hãy chơi đi! Hãy đâm chém thả cửa đi! Không! Một nghìn lần không! Sẽ chẳng có một sát na thỏa thuê như thế cho bạn và tôi. Chúng ta hãy ngẫm lời của Robes Pierre: “Đạo hạnh là hiển nhiên đối với con người” (La vertu est la naturelle du peuple ).


Tại sao vậy? Đừng tưởng khi thiện – ác du di là chúng ta thỏa thuê chơi trò ảo thuật. Thiện và ác buộc phải phơi ra bộ mặt thật khi bị tấm gương ý chí thiện hảo tuyệt đối của con người soi chiếu vào (đây cũng là điểm yếu của người Trung Hoa cổ khi không đưa thiện – ác về cõi miền của siêu việt tuyệt đối để tham chiếu, bởi lẽ họ là những người duy sinh yêu tha thiết trần gian này). Chúng ta hãy nghe nền đạo lý tất định của Kant trên nẻo đường tiến về vĩnh cửu của ý chí làm người: “Những vấn đề nổi lên trong kinh nghiệm của con người là: Hiện hữu Thiên Chúa, ý chí tự do và mệnh lệnh đức hạnh của vũ trụ, tất cả đều không lộ hiện để kiến thức khoa học có thể tìm thấy một giải pháp, thật sự nó cũng không nắm trong kinh nghiệm tôn giáo, mà nó nằm đích thực trong tín điều luân lý” (The ultimate problems arising out man’s experience, the being of God, the freedom of the will and the ethical order of the universe, undermonstrable for scientific knowledge find their solution, not indeed in religion experience, but in moral faith. – William G. Burgh ‘The Legacy of the Ancient World’, Penguin 1967, Law ).


Đức hạnh là Tri thức


Trước hết như những người nhận biết lẽ công chính, chúng ta hãy xâm nhập vào khuôn viên đạo đức bằng một ý thức hết sức thanh thản, không cho cái này là tốt hay cái kia là xấu, hoặc giả tốt - xấu cũng chẳng để làm gì. Nghĩa là khởi đầu thiện – ác sẽ được xem như hai giá trị vô thưởng vô phạt.


Thiện –ác đầu tiên là của phạm trù duy niệm, và nó được vô can bởi lẽ ý thức con người là tự do. Để hiểu thiện ác, Spinoza đã khai mào bằng thái độ: “Tôi đã cố gắng một cách thận trọng để không chế riễu hay thương hại hoặc ghê tởm những hành vi con người, mà chỉ để thấu hiểu chúng.


Nguồn gốc đầu tiên của đạo đức là ý thức, trong kinh Gita có câu: “Ý thức phải là mục đích của hành động.” Chính vì vậy mà khởi từ cội nguồn , đạo đức sẽ được xét trên địa hạt ý thức như thể đó là đạo đức của ông chủ tối cao cho hành động. Chúng ta hãy bắt đầu cùng với “ông hoàng đạo đức” Kant, bằng một ý thức trực nhận đầu tiên về đạo đức, Kant nói: “Vũ trụ là một trật tự, hai tình cảm tăng dần nơi tôi: bầu trời sáng trên đầu tôi và lề luật luân lý ở trong tôi. Tôi thấy chúng trước mắt, tức khắc tôi ràng buộc chúng vào ý thức tôi.”


Theo Kant thì lề luật luân lý của con người cũng hiển nhiên như bầu trời trong sáng ở trên đầu vậy, bầu trời ấy cũng có lề luật tự nhiên của nó, còn con người cũng phải có lề luật riêng của mình – đó là luân lý. Tuy nhiên đấy mới chỉ là cảm trạng trong sáng đầu tiên của con người về luân lý, điều đó có thể khiến những tâm trí mạch lạc lấy làm khó chịu. Để đi từ căn để vấn đề, chúng ta hãy trở lại nỗi cắc cớ éo le của thiện – ác. Thiện ác là gì? Chúng xâm lấn nhau như ánh sáng và bóng tối, nhân có cái này mới gọi được tên cái kia và ngược lại. Song thiện – ác cũng không dễ gì trở thành miếng mồi béo bở để biện hộ cho những hành động gian tà khuất tất quấy lộn nhập nhòa thiện – ác để tháu cáy chân lý.


Tại sao vậy? Cái đầu tiên mà thiện ác phải đối mặt nhức nhối là ý thức con người. Nhờ vào những mắt lưới hờ hoặc còn thiếu chặt chẽ của công lý, một người có thể lẩn trốn tội trạng của hắn, song nếu hắn không có ý thức thiện thì hoàn toàn hắn chẳng thể là người thiện. Đây là điểm cốt tử mà được đông đảo các triết gia và các nhà đạo đức qui tụ sự nhìn nhận của mình. Pascal nói: “Cả phẩm giá ta chỉ cốt ở suy tư”. Diogenes Laertius thì nói: “Điều thiện duy nhất là hiểu biết, và cái ác duy nhất là vô tri” (The only good is knowledge, and the only evil ignorance).


Một con người có thể do bị bản năng mãnh liệt chi phối, có thể bị hoàn cảnh gia đình hay xã hội du đẩy đã làm điều ác, điều đó phần nào nó còn được xem xét như một giá trị thiện – ác trồi sụt, nhưng nếu khi nó hành động mà chẳng thèm ý thức về điều ác, như vậy nó là một con vật ở giữa xã hội loài người. Nó vô ý thức, và tội ác của nó như một tuyên cáo: nó là một con người đã phá hoại nhân loại khả tri và khả đạo. Chính vậy mà Socrate đã nói: “Đức hạnh là tri thức, còn tật xấu là vô tri thức” (Phedon hay khảo về linh hồn). Còn Nietzsche thì quả quyết: “Tất cả những điều thiện phải có ý thức, chỉ có những kẻ đạo đức mới có ý thức.” Ý thức là ngọn nguồn cốt tử vô cùng thiết yếu của đạo đức, ý thức qui định rằng: Con người là con người bởi nó có ý thức, và ý thức đã lựa chọn luân lý cho con người như một lề luật nhân loại bất khả cưỡng. Bởi vậy mà Abberes đã hội tụ ý kiến của mọi người bằng câu nói: “Lương tri là sự kiện được mọi người đồng ý hơn cả.”


Quả thế! Con người là con người của lương tâm và lương tâm tự nó đã khao khát lương tri bằng ngả suy niệm – ý thức của con người. Người lương thiện trước hết phải là người lương tri nếu không thì cũng phải nhân danh lương tri. Cũng chính bởi vai trò của chữ Tri, Đức Khổng Tử đã hết sức đề cao chữ Học như đức thiết yếu của người quân tử, ông nói: “Muốn nhân mà không muốn học thì cái ngu che mờ; muốn trí mà không muốn học, thì cái trái lẽ che mờ; muốn trực mà không muốn học, thì cái ương ngạnh che mờ; muốn dũng mà không muốn học , thì cái loạn che mờ; muốn cương mà không muốn học , thì bị cái tàn bạo che mờ” (Luân Ngữ, Dương Hóa, tr.17). Và thầy Tử Lộ một học trò xuất sắc của Khổng Tử cũng nêu ra vai trò của chữ Tri một cách thật thấm thía: “Quân tử học dĩ tri kỳ đạo”, tức : Quân tử học biết đạo mà theo (Luận ngữ, Tử Trương, tr.14).


Đạo đức là ý thức, sự ngã ngũ đó dường như cũng chẳng giúp chúng ta được gì nhiều hơn khi muốn hoạch định một khuôn phép thiện lương để đưa vào cuộc đời, bởi lẽ ý thức vốn di dịch và biến ảo khôn dò, như vậy đạo đức năm phen tứ hồi dễ bị nghiêng ngả chung chiêng; vả lại ý thức của mọi người không giống nhau và không cùng trình độ với nhau, bởi thế đạo đức có nguy cơ trở nên những ván cờ riêng rẽ giành cho các đấu thủ ở các trật hạng khác nhau. Song may mắn thay cho chúng ta, Kant đã đến, suốt thế kỷ của mình Kant được mệnh danh là “ông hoàng phúc âm mới” bởi thiên tài của ông đã phần nào an định một mấu chốt dứt điểm khiến cuộc nghiêng ngả của đạo đức có thể bấu vào. Ông đã đặt đạo đức vào địa hạt tuyệt đối. Chúng ta hãy xem xét cách đặt vấn đề của Kant: “Trong tất cả những gì có thể quan niệm ở cõi đời, không có gì có thể tuyệt đối coi là thiện, trừ ra một cái là thiện chí.”


Con người chưa bao giờ là quán quân tội ác


Đạo đức tuyệt đối cũng là mục đích của nhận thức luận Socrate, chúng ta thử tham chiếu cách đặt con người vào điều thiện tuyệt đối bằng lối phản chứng của ông: “Nếu độc ác là thứ để thi đua sẽ có rất ít người tỏ ra là xứng đáng nhất về môn đó” ( Phedon ). Thật chí lý! Con người sinh ra không phải để thỏa thuê đam mê tội ác của mình: cho dù là một Trụ Vương tàn bạo ra lệnh chặt chân ông già để xem tủy, rồi mổ bụng hàng ngàn thiếu nữ để xem thai, đã tự nguyện leo vào đống củi lửa để thiêu thân như một tự thú cam lòng rằng, ta buộc phải tự xử lấy mình trước khi bị tòa án thiện lương của cuộc đời xử giảo, cho dù là một Tần Thủy Hoàng tàn bạo đốt sách giết nho, trong tay đầy quyền bính quân sĩ mà vẫn nơm nớp đi trong đế quốc của mình giữa những khuôn mặt hiền lành đang khát khao bình yên công chính; cho dù một Hitler có ra lệnh thủ tiêu hàng triệu người Do Thái thì cũng phải giả đò nhân danh điều thiện lương là hãy trả thù cho Chúa cứu thế bị đóng đanh trên thập giá.


Và chúng ta hãy nhìn khuôn mặt của những tên trùm mafia, những khuôn mặt mà người ta tưởng rằng chúng chỉ quen tắm táp no say trong tội ác, vậy mà hầu hết chúng bị bắn chỉ vì lần cuối cùng chúng đã lưỡng lự trước khi ra tay làm một điều ác khác. Không! Ngay cả những kẻ ác nhất khi đang tâm làm điều ác lương tâm chúng cũng lóe lên chút trăn trở lưỡng lự nào đó. Nhưng một con mèo không vậy, nó vồ lấy con chuột giằng xé phanh thây, máu đỏ lòm miệng mà chẳng ám ảnh trong bất kỳ sát na nào? Một con hổ, một con chó sói cũng vậy, chúng gặm gau gáu những con mồi bất hạnh nhẹ nhàng như những con bê đang gặm cỏ. Song con người không vậy, nó run tay khi hạ thủ đồng loại. Và để so sánh với những quán quân ăn thịt của tự nhiên, con người còn lâu mới xứng đáng với vai trò tiêu diệt đồng loại.


Khi ta dứt điểm đặt con người vào chỗ đứng ác như vậy, lập tức con người vượt thoát khỏi cái ác xấu xa đó, con người không sinh ra để làm ác, đó phải là một thực tại.


Nhưng con người sinh ra có phải để làm điều thiện không? Và nếu con người như vậy, tại sao cái ác vẫn tràn ngập mặt đất này trong từng giây từng phút? Câu trả lời có thể là: con người là cái thiện nhưng cái thiện còn khuyết hãm, còn thiếu toàn hảo, còn chưa mười phân vẹn mười. Con người là giấc mơ thiện hảo luôn thất bại và đổ nát giữa cuộc đời thực tại. Và nó lúc nào cũng đang cố công xây lại đống đổ nát đó bằng chính bàn tay phá hoại của mình.


Vì con người sinh ra không phải để làm điều ác, nên Rousseau nhà đạo đức nổi tiếng đã cho rằng, cái thiện trong con người là tất yếu như tâm thức của con người, ông nói: “Tất cả những gì tôi cảm thấy tốt, cái đó là tốt; tất cả những gì tôi cảm thấy xấu cái đó là xấu. Cố vấn giỏi nhất của lương tâm tôi ấy là lương tâm tôi.


Lương tâm tất yếu hướng về điều thiện. Điều này được xem như là thứ luân lý tiên thiên của Thượng Đế hay tạo hóa rót vào tâm hồn con người. Nhưng ở đây chúng ta hãy tránh sa vào cái bẫy tiên nghiệm có nguy cơ dẫn đến những cuộc tranh luận vô lối. Tốt hơn, chúng ta hãy quan sát cái nhìn của Dostoievski, bằng cách trực tiếp bình dị của đời sống, ông đã mô tả kỹ lưỡng cảm nghiệm đạo đức của con người thông qua tác phẩm “Anh em nhà Ca-ra-ma-dốp”:


Khi quan tòa gọi Ali-ô-sa lên làm chứng cho anh của chàng là Ivan bị buộc tội giết cha ( trích theo kịch bản phim)


Quan tòa: - Aliô-sa, ngài có tin anh ngài Ivan mắc tội giết cha không?


Aliô-sa: - Không! Không bao giờ, anh ấy vô tội!


Quan tòa: - Tại sao ngài chắc chắn như vậy?


Aliô-sa: - Nhìn vào mắt anh ấy, tôi biết!


Tại phiên tòa làm gì có chứng cớ được coi là “nhìn vào mắt”. Nhưng ở phiên tòa lương tâm cuộc đời, thì chứng cớ đó luôn luôn có đấy, và luôn luôn có được giá trị. Những kẻ làm ác vẫn thường có đôi mắt hoảng hốt và lấm lét, thậm chí có không ít những đôi mắt tội phạm bứt dứt niềm sám hối. Tại sao sự nhức nhối trăn trở lại ám ảnh đôi mắt lầm lỗi? Bởi lẽ đã làm người, không ai có thể tránh khỏi việc phải đem hành vi của mình ra soi trước tòa án của lương tâm.


Blondel nói: “Lương tâm chính là ý chí hành xử trong cái việc nó đưa ta tránh khỏi nỗi khổ nhất của con người là tội ác.”


Nỗi khổ của con người là tội ác, điều này đã được đề cập ngay từ thủa khai sinh loài người sau cuộc ra đời của thần Dớt trong thần thoại Hy Lạp. Bằng huyền thoại, con người cổ đại đã dựng lên những vị thần của núi Ô-lanh –pơ truy đuổi cắn dứt lương tâm những kẻ phạm tội, khiến chúng không thể nào yên ổn mà sống nổi.


Đạo đức duy niệm tuyệt đối



Đến đây chúng ta hãy đi vào con đường tuyệt đối của Kant về đạo đức. Theo Kant thì đạo đức không chỉ có cứu cánh tuyệt đối mà tự thân nó, đạo đức có một nền tảng khởi đầu từ một nút thắt tuyệt đối. Kant khởi sự đạo hạnh bằng đức thiện tín như:


Một kẻ nào đó vay ta tiền, và hẹn đến một ngày sẽ trả. Rồi cái ngày ấy đến, kẻ đó không chịu trả số tiền vay như đã hứa, và điều đó gây cho ta ít nhất một bực bội nhỏ ở trong lòng. Ta suy luận rằng kẻ đó đã bội tín. Nó đã phá vỡ miền đất đầu tiên của đạo hạnh. Giả sử kẻ vay tiền đó là một gã ngang tàng, một kẻ phản loạn, một kẻ chuyên đảo lộn các giá trị, thậm chí là một kẻ mong phá phách để thiết lập hệ quy chiếu thiện ác mới chẳng hạn, thì chính kẻ đó dù có là một tên cướp đi nữa có bao giờ muốn đồng bọn, tay chân của nó bội tín không? Chúa Jê-su cũng cho rằng: bọn kẻ cướp chúng cũng biết đối xử tốt với nhau, cũng giúp nhau khi hoạn nạn, và cũng cố gắng công bằng khi chia những đồ vật cướp được.


Như vậy để tồn tại, ngay cả những lực lượng hắc ám tội lỗi nhất cũng tìm cách giữ lấy một trật tự, một kỷ luật, một lối sống nào đó khả dĩ ngả theo lề luật công chính. Về điểm này Kant còn phát hiện ra mặc cảm tội lỗi của bọn tội phạm như là một mặc cảm đạo đức tuyệt đối, ông cho rằng: tất cả những kẻ phạm tội dù dữ dằn đến đâu cũng ngượng ngùng mặc cảm trước những con người lương thiện trong suy nghĩ là, nó chống lại hay đi ngược lại lối sống của con người.


Một kẻ bội tín làm sao có thể vay được tiền của bạn bè hay người thân của hắn? Có phải hắn đã lợi dụng lối sống vị tha thường có của con người không? Và đến lượt hắn, hắn bội tín. Hắn đã tự tiện phá bỏ nếp sống vị tha của con người.


Bàn về đạo đức tuyệt đối, Platon ông hoàng của địa hạt lý tưởng đã bàn thật rốt ráo: “Không ai chủ tâm làm điều ác bao giờ; vì dù họ có làm điều ác thì vẫn nhắm một mục đích tốt, như ăn trộm, giết người để nuôi sống, bảo vệ tình yêu quyền lợi.”


Thiện và ác tuyệt đối chắc hẳn có thể đối chiếu với âm và dương tuyệt đối. Trong âm có dương, trong dương có âm; nhưng có một điều tuyệt đối là: âm là âm, dương là dương (chỉ có âm mới đẻ, còn dương không thể đẻ). Trong thiện có ác, trong ác có thiện, song có một xác tín chắc chắn rằng: thiện là thiện, ác là ác; thiện ác không thể tháu cáy lẫn nhau được.


Ngoài nền tảng tuyệt đối thiện – ác của Kant, các triết gia còn bàn đến cứu cánh lý tưởng của điều thiện như là giá trị tuyệt đối để qui chiếu lầm lỗi của con người. Jasper nói: “Người ta không thể là tội nhân nếu không đặt mình trước Thượng Đế.”


Quả vậy nếu không đặt mình trước một Thượng Đế toàn năng, toàn hảo và toàn bích thì làm sao con người có thể trở thành một tội nhân được. Đây là cách qui chiếu tuyệt đối để buộc con người phải hiện lên như là người lương hảo hay kẻ phạm tội. Tuy nhiên đây không phải khuynh hướng duy tâm khiến những kẻ lầm lỗi có thể an lòng khi nhủ rằng: So sánh với Thượng Đế ư? Điều đó thật vô ích, vì làm sao ta có thể so sánh mình với Đấng tuyệt đối siêu việt. Vậy thì ta được tự do mặc sức làm mọi chuyện, bởi sẽ chẳng có một bảng giá trị cụ thể nào qui định rằng ta là một kẻ phạm tội.


Song không phải vậy! Con người là một cuộc hành trình hướng về Thượng Đế, và đạo đức của nó cũng hành trình hướng miền siêu việt đó, bởi thế hành động của con người sẽ được soi chiếu nhân danh ngả đi của nó hướng về siêu việt hay ngả đi lùi về thoái hóa. Con người lương thiện là con người hành động nhân danh khát vọng hướng đến miền lương thiện tuyệt đối. Còn kẻ xấu là kẻ từ bỏ khát vọng đó. Ở trong dòng chảy cuốn về đạo đức lý tưởng kẻ vô minh đứng lại, nó khước từ miền cao cả siêu việt thánh hóa đó, nó là kẻ xấu.


Khuynh hướng đạo đức lý tưởng phải là tất yếu và vĩnh cửu nhờ đó mà hành động của con người có nổi ánh sáng dẫn đường để lần bước theo. Spinoza nói: “Tình yêu lề luật là đức hạnh nền tảng, nó đem lại cho mọi vật sự sắp đặt trong một tinh thần đạo lý và bổn phận. Một người có thể từ chối bổn phận một cách tự nhiên, nhưng không phải là phi đạo đức hay vượt ra khỏi tình yêu lề luật. Bổn phận thì thay đổi, trong khi lề luật lại bất dịch, nó tồn tại như nền móng đạo đức vĩnh cửu” ( L’amour de l’ordre est la vertu fondamentale qui rend vertueuses toutes les dispositions esprits. Un homme peut s’acquitter de ses devoirs par une sorte de penchant naturel, sans etre vertueux, sans avoir l’amour de l’ordre. Les devoirs sont changeant tandis que l’ordre est immuable et demeure comme le fondement de la morale eternelle. – Sdd ‘La Philosophie moderne’, tr.99 ).


Đã làm con người thì phải có nguyên lý làm người, bởi chính có nguyên lý đó mà con người mới xuất hiện như con người. Nguyên lý làm người đó là Đạo lý làm người. Nó là tất yếu. Chúng ta hãy tham chiếu ý tưởng của William Burgh: “Con người là tạo vật của hai thế giới: nhất thời và vĩnh cửu… Cái thứ nhất phái sinh, cái thứ hai là một thực tại nguyên khai, cái thứ nhất là đối tượng của vấn nạn suy lý, cái thứ hai là tín điều luân lý hay tôn giáo” (Man is a creature of two, the temporal and the eternal… the one a derivative, the other an original reality, the one object of rational inquiry, the other moral or religious faith. – Law ).


Luân lý như là lề luật của thế giới vĩnh cửu, ở đó con người xuất hiện như một kẻ phái sinh ngắn ngủi của dòng thời gian vô tận đang khát khao hành trình về đất mẹ bất hủy diệt của mình. Kẻ hành hương đó như một chấm son thiện hảo đang lướt đi trên con đường chông gai gập gềnh cái xấu – cái hiểm ác để xây nên sự nghiệp thánh thiện làm người. Luân lý là tuyệt đối. Richard Price nói: “Luân lý là vĩnh cửu và bất biến” ( Morality is eternal and immutable ).

BAI HOC CUOC SONG

Đừng đặt cuộc sống trong giới hạn của những người trung bình




Thật là một vinh dự lớn lao khi được dành mười phút phát biểu tại đây mà chẳng lo bị phản bác, mỉa mai hay trả thù. Tôi nói điều này với tư cách một người Singapore và hơn hết là với tư cách một người chồng.


Vợ tôi là một người tuyệt vời, hoàn hảo ở mọi khía cạnh duy chỉ ngoại lệ một điều. Cô ấy là biên tập viên của một tờ tạp chí. Cô ấy kiếm sống nhờ "sửa lưng" người khác. Cô ấy đã mài dũa kỹ năng chuyên môn của mình hơn một phần tư thế kỷ, chủ yếu nhờ luyện tập tại nhà qua những cuộc trao đổi giữa hai vợ chồng.


Nói dễ hiểu hơn, tôi là một luật sư tranh tụng. Tôi dành thời gian mỗi ngày để chỉ ra sai lầm của người khác. Tôi kiếm sống bằng việc phản bác.


Dẫu vậy đời sống hôn nhân của chúng tôi vẫn cực kỳ hạnh phúc. Đơn giản vì mỗi khi có cuộc tranh cãi giữa một biên tập viên và một luật sư, kẻ chiến thắng không ai khác ngoài vợ.


Và chính thế nên tôi muốn bắt đầu bài này bằng một lời khuyên nhỏ cho cánh mày râu: một khi đã chinh phục được trái tim nàng, bạn chẳng nhất thiết phải chinh phục nốt mấy cuộc tranh luận.


Hôn nhân được coi là một dấu mốc của cuộc đời. Một số trong các bạn đã kết hôn. Một số chưa từng kết hôn. Một số sẽ kết hôn. Một số rất thích tận hưởng trải nghiệm này và sẽ kết hôn nhiều, nhiều lần nữa. Cũng tốt thôi.


Dấu mốc lớn tiếp theo trong cuộc đời các bạn là ngày hôm nay: lễ tốt nghiệp. Kết thúc quá trình giáo dục. Hoàn tất việc học.


Có một lời nói dối vĩ đại mà các bạn có thể đã được nghe, rằng "Học tập là hành trình cả đời". Rồi vì lẽ đó mà bạn sẽ học nữa, lấy bằng thạc sĩ, rồi tiến sĩ, rồi giáo sư, cứ thế. Bạn biết ai đã nói với bạn như thế chứ? Giáo viên. Bạn không thấy có chút mâu thuẫn quyền lợi nào ở đây sao? Dù gì đi nữa thì đây cũng là thị trường giáo dục. Họ sẽ ra sao nếu thiếu các bạn? Họ cần những khách hàng thường xuyên.


Các bạn có thể đang mong mỏi tới ngày đi làm, tìm được tình yêu, kết hôn, gây dựng gia đình. Những sinh viên như các bạn ắt hẳn trông đợi một công việc lương cao, nơi mà bạn phải làm quần quật với một mớ trách nhiệm.


Đó là những gì được trông mong, hy vọng. Và nếu các bạn sống đúng y như thế, thật sự quá sức lãng phí.


Nếu các bạn trông đợi như thế, các bạn sẽ tự giới hạn mình. Các bạn sẽ sống cuộc đời bị bao bọc trong ranh giới được đặt ra bởi những người trung bình. Tôi không có ý đánh giá họ. Nhưng không ai nên khát khao trở thành họ. Các bạn chẳng cần phải bỏ ra bấy nhiêu năm học hỏi từ bao con người ưu tú của Singapore để chuẩn bị tinh thần trở thành kẻ trung bình.


Cái các bạn nên chuẩn bị tinh thần là Đời, là một mớ hỗn độn. Bạn chẳng thể trông mong bất cứ điều gì từ nó. Đời là bất công. Tất cả vốn dĩ đã không cân bằng. Đời là bất khả khống chế. Mọi điều tốt xấu cứ thế ập đến từng ngày, từng giờ, từng khoảnh khắc. Tấm bằng là lá chắn yếu ớt bao bọc bạn trước số phận.




Điều đầu tiên và quan trọng nhất: đừng làm việc


Công việc là thứ miễn cưỡng, là thứ không ai mong muốn.


Công việc có thể giết bạn. Người Nhật có từ "Karoshi" để chỉ việc tử vong vì làm việc quá sức. Đó là hậu quả rõ ràng nhất của công việc. Nó còn có thể giết bạn theo nhiều cách khác. Nếu bạn làm việc, ngày này qua ngày khác, tâm hồn bạn sẽ bị bào mòn từng chút từng chút một, rã ra cho đến khi chẳng còn lại gì. Một hòn đá chỉ còn trơ lại cát và bụi.


Đừng lãng phí phần lớn cuộc đời để làm thứ mình không thích cốt để hưởng tí an nhàn chút tuổi già. Bạn có thể không bao giờ chạm được tới cái đích đó.


Hoãn cái ham muốn tìm một công việc lại. Thay vì thế, hãy vui chơi. Tìm một thứ mà bạn hứng thú. Thực hiện nó. Lặp đi lặp lại. Rồi bạn sẽ giỏi vì hai lý do: bạn thích nó, và bạn làm nó thường xuyên. Sớm muộn gì thì nó cũng có giá trị.


Tôi thích tranh luận, và tôi yêu ngôn ngữ. Vì thế tôi trở thành luật sư. Tôi thích nó và thậm chí có thể làm không công. Nếu không trở thành luật sư, tôi cũng sẽ chọn một nghề liên quan đến viết lách - một nhà báo thể thao chẳng hạn.


Vậy các bạn nên làm gì? Hãy tìm một chỗ cho riêng mình. Tôi nghĩ việc tìm kiếm chẳng hề khó khăn với các bạn. Tại thời điểm này của cuộc đời, các bạn hẳn đã biết mình muốn làm gì. Sẽ tuyệt vời hơn nữa nếu các bạn không thể ngăn mình theo đuổi đam mê. Tại thời điểm này của cuộc đời, các bạn nên biết thứ mình hứng thú.


Hãy tìm một thứ truyền động lực cho bạn, thiêu đốt bạn, trở thành đam mê của bạn. Mỗi ngày, bạn phải tỉnh dậy mang trong mình nhiệt huyết không ngừng nghỉ. Nếu không, bạn hẳn đang làm việc.


Đa số các bạn trong tương lai sẽ phải tham gia vào nhiều loại hoạt động giao tiếp. Tôi có một thông điệp thứ hai: hãy thận trọng với sự thật. Có rất nhiều thời điểm nguy hiểm, tuyệt nhiên không thể nói hay viết ra sự thật. Nó có khả năng xúc phạm và làm tổn thương ghê gớm, rồi bạn sẽ nhận ra rằng: với những người càng gần gũi bao nhiêu, bạn càng phải thận trọng bấy nhiêu để che giấu sự thật. Thường thì im lặng là một tính tốt. Nó còn là một kỹ năng tuyệt vời. Đứa con nít nào cũng có thể bật ra sự thật trước khi lường tới hệ quả. Phải rất trưởng thành mới có khả năng trân trọng giá trị của sự im lặng.


Để có thể che giấu sự thật, bạn trước hết phải thừa nhận nó. Phải tuyệt đối trung thực với bản thân. Đừng bao giờ cố qua mặt kẻ trong gương.


Tôi đã bảo rằng các bạn không nên làm việc, tránh nói ra sự thật. Giờ thêm một điều nữa: hãy cố "được" ghét.


Nó không dễ như bạn tưởng. Bạn có biết ai ghét bạn không? Tất cả những vĩ nhân có đóng góp vào lịch sử nhân loại đều đã từng bị ghét, không phải bởi một người, mà thường là rất nhiều người. Sự căm ghét lớn đến mức những vĩ nhân này bị xa lánh, lăng mạ, giết hại hay trong một trường hợp nổi tiếng, bị đóng đinh vào thập tự.


Không nhất thiết phải xấu xa mới bị ghét. Một người có thể bị ghét vì cố gắng thực hiện lẽ phải theo tiếng nói của bản thân. Thật sự quá dễ để được yêu mến, bạn chỉ cần tỏ ra dễ tính và ít giữ chính kiến. Dần dà an phận là một kẻ trung bình. Hẳn bạn không muốn thế. Trên thế giới có rất rất nhiều kẻ tồi tệ, và nếu bạn không chống lại họ, bạn sẽ tồi tệ giống như họ. Quá được yêu mến là dấu hiệu chứng tỏ bạn đang đi sai đường.


Điều cuối cùng: hãy yêu đi


Tôi không nói "được yêu". Nó cần đánh đổi quá nhiều. Nếu một người chủ động thay đổi vẻ ngoài, tính cách và giá trị bản thân, họ có thể được bất cứ ai yêu.


Tôi khuyến khích bạn yêu một người. Nghe có vẻ hơi quái. Bạn có thể cho rằng nó phải xảy đến tự nhiên mà không cần cân nhắc. Sai lầm. Xã hội hiện đại chống lại tình yêu. Chúng ta soi mọi người dưới lăng kính hiển vi hòng tìm ra thiếu sót và nhược điểm của họ. Thật quá dễ dàng để tìm một lý do không yêu ai đó, hơn là làm ngược lại. Chỉ cần duy nhất một lý do để từ chối. Tình yêu lại đòi hỏi sự chấp nhận toàn diện.


Yêu một người có rất nhiều lợi ích. Đó là sự ngưỡng mộ, học hỏi, thu hút và, cho những ai thích từ hay hơn, thứ mà chúng ta gọi là hạnh phúc. Khi đang yêu ai đó, chúng ta cố gắng hoàn thiện bản thân ở mọi khía cạnh. Chúng ta nhận ra sự tầm thường của vật chất. Chúng ta vui khi là con người. Yêu thương có lợi cho tâm hồn.


Yêu một người vì lẽ đó rất quan trọng, và cũng quan trọng không kém là chọn đúng người để yêu. Tình yêu không đến ngẫu nhiên, từ cái nhìn đầu tiên, tại một sàn nhảy đông đúc. Nó vươn mình chậm rãi, cắm rễ trước khi chia cành và đơm hoa. Nó không phải ngọn cỏ dại yếu ớt, mà là thân cây đủ khỏe mạnh để đương đầu gió bão.


Bạn sẽ nhận ra, khi có một ai đó để yêu, khuôn mặt sẽ chẳng quan trọng bằng trí óc, cơ thể sẽ chẳng quan trọng bằng trái tim.


Bạn cũng sẽ nhận ra chẳng có nỗi đau nào quá lớn khi yêu thương không được đáp lại. Bạn làm mọi thứ không phải để được đền đáp.


Cuối cùng, bạn sẽ nhận ra yêu thương ai đó vốn chẳng thể đo lường. Hoặc là yêu với từng tế bào trong cơ thể mà chẳng hề hối tiếc, hoặc là không gì cả.


Đừng làm việc. Tránh nói ra sự thật. Cố "được" ghét. Yêu một ai đó. Bạn sẽ có một cuộc đời đầy bận rộn.